Sửa van là gì? Các công bố khoa học về Sửa van

"Sửa van" là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ hành động sửa chữa, bảo dưỡng, điều chỉnh, thay thế hoặc cải thiện một van. Van là một loại thiết bị dùng để điều...

"Sửa van" là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ hành động sửa chữa, bảo dưỡng, điều chỉnh, thay thế hoặc cải thiện một van. Van là một loại thiết bị dùng để điều chỉnh hoặc kiểm soát dòng chất lỏng hoặc khí trong hệ thống. Việc sửa van có thể bao gồm làm sạch van, thay thế phần hỏng, điều chỉnh van để đảm bảo hoạt động hiệu quả.
Sửa van là quá trình sửa chữa và bảo dưỡng các loại van trong hệ thống, nhằm đảm bảo việc hoạt động hiệu quả và độ tin cậy của chúng. Một số loại van phổ biến bao gồm van cửa, van bi, van cầu, van đĩa, van nhảy gang và van điều khiển.

Quá trình sửa van có thể bao gồm các bước sau:

1. Kiểm tra và đánh giá: Đầu tiên, kỹ thuật viên sẽ kiểm tra và đánh giá tình trạng van, xác định vấn đề và tiến đến quyết định sửa chữa hoặc thay thế van.

2. Làm sạch: Tùy thuộc vào tình trạng van, kỹ thuật viên có thể dùng các chất tẩy rửa hoặc công cụ để làm sạch bề mặt van hoặc các bộ phận bên trong van. Điều này nhằm loại bỏ cặn bẩn, mòn và chất cặn gây cản trở hoạt động của van.

3. Thay thế phụ tùng: Nếu van có các bộ phận bị hư hỏng, kỹ thuật viên sẽ thay thế những phụ tùng đó bằng những bộ phận mới, bền và phù hợp.

4. Điều chỉnh: Kỹ thuật viên sẽ điều chỉnh van để đảm bảo việc hoạt động mượt mà và hiệu quả. Điều chỉnh có thể gồm việc kiểm tra áp lực, vị trí và chế độ làm việc của van.

5. Kiểm tra vận hành: Cuối cùng, van sau khi được sửa chữa và bảo dưỡng sẽ được kiểm tra vận hành để đảm bảo chúng hoạt động đúng cách và không có sự rò rỉ hay lỗi khác.

Quá trình sửa van cần được thực hiện bởi các kỹ thuật viên có kiến thức và kỹ năng chuyên môn về van và hệ thống liên quan. Quá trình này giúp duy trì và nâng cao hiệu suất hoạt động của van, đồng thời kéo dài tuổi thọ và đảm bảo an toàn cho hệ thống.
Chi tiết quá trình sửa van có thể được mô tả như sau:

1. Kiểm tra và đánh giá: Kỹ thuật viên sẽ kiểm tra và đánh giá tình trạng van để xác định vấn đề. Điều này bao gồm kiểm tra mức độ hư hỏng, rò rỉ, mòn hoặc ôxy hóa của van. Thông qua quá trình này, kỹ thuật viên có thể xác định liệu van cần được sửa chữa, bảo dưỡng hay thay thế hoàn toàn.

2. Tháo rời van: Sau khi quyết định sửa chữa hoặc thay thế van, kỹ thuật viên sẽ tháo rời van khỏi hệ thống. Quá trình này bao gồm việc cắt nguồn điện hoặc khóa van, tháo bỏ ốc vít và các bộ phận kết nối để có thể tách van ra khỏi hệ thống.

3. Kiểm tra chi tiết của van: Van được kiểm tra chi tiết để xác định các phụ tùng hỏng hoặc cần được điều chỉnh. Kỹ thuật viên sẽ kiểm tra các bộ phận như xi lanh, bi, đĩa, gioăng, trục van và hệ thống phun dầu để đảm bảo chúng hoạt động đúng cách.

4. Sửa chữa van: Nếu van chỉ gặp phần hỏng nhỏ, kỹ thuật viên có thể sửa chữa bằng cách thay thế phụ tùng hỏng, làm phẳng bề mặt, hàn hoặc vặn lại các bộ phận. Quá trình sửa chữa cụ thể sẽ phụ thuộc vào loại và tình trạng hư hỏng của van.

5. Bảo dưỡng van: Kỹ thuật viên có thể thực hiện các bước bảo dưỡng bổ sung để đảm bảo van hoạt động tốt. Điều này có thể bao gồm xử lý mòn, làm sạch các bộ phận, kiểm tra và bôi trơn đúng cách các điểm quan trọng như trục và ổ. Bảo dưỡng định kỳ giúp duy trì hiệu suất và tuổi thọ của van.

6. Lắp ráp và kiểm tra lại: Sau khi đã sửa chữa và bảo dưỡng, kỹ thuật viên lắp ráp van trở lại và làm sạch bề mặt để đảm bảo kín nước và không gây rò rỉ. Trước khi đưa van trở lại hoạt động, kỹ thuật viên sẽ kiểm tra vận hành bằng cách xem xét áp suất, dòng chảy và kiểm tra có rò rỉ hay không.

Tùy thuộc vào tình trạng và loại van, quá trình sửa van có thể mất từ một vài giờ đến vài ngày. Tuy nhiên, nó là một công việc quan trọng để đảm bảo hệ thống hoạt động ổn định và an toàn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sửa van":

Sự sửa đổi của Hiệp hội Rối loạn Vận động đối với Thang đánh giá Bệnh Parkinson Thống nhất (MDS‐UPDRS): Trình bày thang đo và kết quả kiểm tra clinimetric Dịch bởi AI
Movement Disorders - Tập 23 Số 15 - Trang 2129-2170 - 2008
Tóm tắt

Chúng tôi trình bày đánh giá metri lâm sàng của phiên bản do Hiệp hội Rối loạn Vận động (MDS) tài trợ, đó là bản sửa đổi của Thang Đánh Giá Bệnh Parkinson Thống nhất (MDS‐UPDRS). Nhóm công tác MDS‐UPDRS đã sửa đổi và mở rộng UPDRS dựa trên các khuyến nghị từ một bài phê bình đã công bố. MDS‐UPDRS có bốn phần, cụ thể là, I: Trải nghiệm Không vận động trong Sinh hoạt hàng ngày; II: Trải nghiệm Vận động trong Sinh hoạt hàng ngày; III: Khám nghiệm Vận động; IV: Biến chứng Vận động. Hai mươi câu hỏi được hoàn thành bởi bệnh nhân/người chăm sóc. Các hướng dẫn cụ thể theo từng mục và phần phụ lục của các thang đo bổ sung đi kèm được cung cấp. Các chuyên gia về rối loạn vận động và điều phối viên nghiên cứu thực hiện UPDRS (55 mục) và MDS‐UPDRS (65 mục) cho 877 bệnh nhân nói tiếng Anh (78% người da trắng không phải gốc Tây Ban Nha) bị bệnh Parkinson từ 39 địa điểm. Chúng tôi đã so sánh hai thang đo bằng cách sử dụng kỹ thuật tương quan và phân tích yếu tố. MDS‐UPDRS cho thấy tính nhất quán nội tại cao (hệ số Cronbach = 0.79–0.93 trên các phần) và tương quan với UPDRS gốc (ρ = 0.96). Tương quan giữa các phần của MDS‐UPDRS dao động từ 0.22 đến 0.66. Cấu trúc yếu tố đáng tin cậy cho mỗi phần đã được thu được (chỉ số vừa vặn so sánh > 0.90 cho mỗi phần), điều này ủng hộ việc sử dụng tổng số điểm cho mỗi phần thay vì tổng số điểm của tất cả các phần. Kết quả kết hợp của nghiên cứu này hỗ trợ tính hợp lý của MDS‐UPDRS trong việc đánh giá Parkinson. © 2008 Hiệp hội Rối loạn Vận động

#Thang Đánh Giá Bệnh Parkinson Thống nhất #MDS‐UPDRS #rối loạn vận động #tính nhất quán nội tại #phân tích yếu tố
CiteSpace II: Phát hiện và hình dung xu hướng nổi bật và các mẫu thoáng qua trong văn học khoa học Dịch bởi AI
Wiley - Tập 57 Số 3 - Trang 359-377 - 2006
Tóm tắt

Bài viết này mô tả sự phát triển mới nhất của một cách tiếp cận tổng quát để phát hiện và hình dung các xu hướng nổi bật và các kiểu tạm thời trong văn học khoa học. Công trình này đóng góp đáng kể về lý thuyết và phương pháp luận cho việc hình dung các lĩnh vực tri thức tiến bộ. Một đặc điểm là chuyên ngành được khái niệm hóa và hình dung như một sự đối ngẫu theo thời gian giữa hai khái niệm cơ bản trong khoa học thông tin: các mặt trận nghiên cứu và nền tảng trí tuệ. Một mặt trận nghiên cứu được định nghĩa như một nhóm nổi bật và nhất thời của các khái niệm và các vấn đề nghiên cứu nền tảng. Nền tảng trí tuệ của một mặt trận nghiên cứu là dấu chân trích dẫn và đồng trích dẫn của nó trong văn học khoa học—một mạng lưới phát triển của các ấn phẩm khoa học được trích dẫn bởi các khái niệm mặt trận nghiên cứu. Thuật toán phát hiện bùng nổ của Kleinberg (2002) được điều chỉnh để nhận dạng các khái niệm mặt trận nghiên cứu nổi bật. Thước đo độ trung gian của Freeman (1979) được sử dụng để làm nổi bật các điểm chuyển đổi tiềm năng như các điểm chịu ảnh hưởng nền tảng trong thời gian. Hai quan điểm hình dung bổ sung được thiết kế và thực hiện: các quan điểm cụm và các quan điểm vùng thời gian. Những đóng góp của phương pháp là (a) bản chất của một nền tảng trí tuệ được nhận diện bằng thuật toán và theo thời gian bởi các thuật ngữ mặt trận nghiên cứu nổi bật, (b) giá trị của một cụm đồng trích dẫn được diễn giải rõ ràng theo các khái niệm mặt trận nghiên cứu, và (c) các điểm chịu ảnh hưởng nổi bật và được phát hiện bằng thuật toán giảm đáng kể độ phức tạp của một mạng lưới đã được hình dung. Quá trình mô hình hóa và hình dung được thực hiện trong CiteSpace II, một ứng dụng Java, và áp dụng vào phân tích hai lĩnh vực nghiên cứu: tuyệt chủng hàng loạt (1981–2004) và khủng bố (1990–2003). Các xu hướng nổi bật và các điểm chịu ảnh hưởng trong mạng lưới được hình dung đã được xác minh phối hợp với các chuyên gia trong lĩnh vực, là tác giả của các bài báo chịu ảnh hưởng. Các ngụ ý thực tiễn của công trình được thảo luận. Một số thách thức và cơ hội cho các nghiên cứu sau này được xác định.

#CiteSpace II #phát hiện xu hướng #khoa học thông tin #mặt trận nghiên cứu #khái niệm nổi bật #đồng trích dẫn #thuật toán phát hiện bùng nổ #độ trung gian #cụm quan điểm #vùng thời gian #mô hình hóa #lĩnh vực nghiên cứu #tuyệt chủng hàng loạt #khủng bố #ngụ ý thực tiễn.
Đánh giá việc sử dụng các chỉ số "độ phù hợp" trong việc xác thực mô hình thủy văn và thủy khí hậu Dịch bởi AI
Water Resources Research - Tập 35 Số 1 - Trang 233-241 - 1999

Các chỉ số tương quan và các thước đo dựa trên tương quan (ví dụ, hệ số xác định) đã được sử dụng rộng rãi để đánh giá "độ phù hợp" của các mô hình thủy văn và thủy khí hậu. Những thước đo này quá nhạy cảm với các giá trị cực trị (ngoại lai) và không nhạy cảm với sự khác biệt thêm hoặc tỷ lệ giữa các dự đoán của mô hình và quan sát. Do những hạn chế này, các thước đo dựa trên tương quan có thể chỉ ra rằng một mô hình là một dự đoán tốt, ngay cả khi nó không phải vậy. Trong bài báo này, các thước đo độ phù hợp hữu ích hoặc thước đo sai số tương đối (bao gồm cả hệ số hiệu suất và chỉ số đồng thuận) vượt qua nhiều hạn chế của các thước đo dựa trên tương quan được thảo luận. Các điều chỉnh cho các thống kê này nhằm hỗ trợ trong việc diễn giải cũng được trình bày. Kết luận của bài báo là các chỉ số tương quan và các thước đo dựa trên tương quan không nên được sử dụng để đánh giá độ phù hợp của một mô hình thủy văn hoặc thủy khí hậu và rằng các thước đo đánh giá bổ sung (như thống kê tóm tắt và thước đo sai số tuyệt đối) nên bổ sung cho các công cụ đánh giá mô hình.

#độ phù hợp #thước đo tương quan #mô hình thủy văn #mô hình thủy khí hậu #sai số tương đối #hệ số hiệu suất
Về điều kiện biên áp suất và vận tốc cho mô hình Boltzmann lưới BGK Dịch bởi AI
Physics of Fluids - Tập 9 Số 6 - Trang 1591-1598 - 1997

Các điều kiện biên áp suất (mật độ) và vận tốc được nghiên cứu cho các mô hình Boltzmann lưới BGK 2-D và 3-D (LBGK) và một phương pháp mới để xác định các điều kiện này được đề xuất. Các điều kiện này được xây dựng nhất quán với điều kiện biên tường, dựa trên ý tưởng về sự phản hồi của phân phối không cân bằng. Khi những điều kiện này được sử dụng cùng với mô hình LBGK không nén [J. Stat. Phys. 81, 35 (1995)], kết quả mô phỏng khôi phục được nghiệm phân tích của dòng chảy Poiseuille phẳng được điều khiển bởi sự chênh lệch áp suất (mật độ). Điều kiện biên phản hồi tường nửa chừng cũng được sử dụng với các điều kiện đầu vào/đầu ra áp suất (mật độ) được đề xuất trong bài báo này và trong Phys. Fluids 8, 2527 (1996) để nghiên cứu dòng chảy Poiseuille 2-D và dòng chảy trong ống vuông 3-D. Các kết quả số được kết quả với độ chính xác khoảng bậc hai. Độ lớn của sai số của điều kiện biên phản hồi tường nửa chừng có thể so sánh với sai số của các điều kiện biên khác đã được công bố và nó có độ ổn định tốt hơn.

Tần suất dịch bệnh dự đoán sự biến thiên xuyên văn hóa của con người trong chủ nghĩa cá nhân/chủ nghĩa tập thể Dịch bởi AI
Proceedings of the Royal Society B: Biological Sciences - Tập 275 Số 1640 - Trang 1279-1285 - 2008

Các bệnh gây ra áp lực chọn lọc lên hành vi xã hội của các quần thể chủ thể. Ở con người (Homo sapiens), nhiều hiện tượng tâm lý dường như phục vụ cho chức năng phòng vệ chống lại mầm bệnh. Một hàm ý rộng lớn là sự tồn tại của sự khác biệt xuyên văn hóa trong nhận thức và hành vi của con người phụ thuộc vào sự hiện diện tương đối của mầm bệnh trong sinh thái địa phương. Chúng tôi tập trung cụ thể vào một biến văn hóa cơ bản: sự khác biệt giữa các giá trị cá nhân chủ nghĩa và tập thể chủ nghĩa. Chúng tôi đề xuất rằng các biểu hiện hành vi cụ thể của chủ nghĩa tập thể (ví dụ: chủ nghĩa dân tộc, sự tuân thủ) có thể cản trở sự lây truyền của mầm bệnh; và do đó chúng tôi giả thuyết rằng chủ nghĩa tập thể (so với chủ nghĩa cá nhân) sẽ có đặc điểm nhiều hơn ở các nền văn hóa tại các khu vực đã có lịch sử có tỷ lệ mầm bệnh cao hơn. Dựa trên dữ liệu dịch tễ học và các phát hiện từ các khảo sát quốc tế về chủ nghĩa cá nhân/chủ nghĩa tập thể, kết quả của chúng tôi hỗ trợ giả thuyết này: tỷ lệ mầm bệnh theo vùng có mối tương quan tích cực mạnh với các chỉ số văn hóa của chủ nghĩa tập thể và mối tương quan tiêu cực mạnh với chủ nghĩa cá nhân. Các mối tương quan này vẫn có ý nghĩa ngay cả khi đã kiểm soát các biến khác có thể gây nhiễu. Những kết quả này giúp giải thích nguồn gốc của sự khác biệt xuyên văn hóa điển hình và tiết lộ những hệ quả chưa được ghi nhận trước đây của các bệnh gây ra mầm bệnh lên bản chất biến đổi của các xã hội con người.

Các Tế Bào Thần Kinh Ở Vùng Vỏ Não Hình Thái Phân Biệt Và Ghi Nhớ Các Đặc Điểm Gắn Liền Với Hành Vi Của Kích Thích Thị Giác Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 212 Số 4497 - Trang 952-955 - 1981

Hoạt động đơn tế bào được ghi lại ở vỏ não hình thái (inferotemporal cortex) của các con khỉ thực hiện một nhiệm vụ yêu cầu nhận thức và tạm thời giữ lại các kích thích có màu. Nhiều tế bào phản ứng khác nhau đối với kích thích. Bằng cách thay đổi tầm quan trọng của một số đặc điểm của bộ kích thích phức hợp, nhận thấy rằng phản ứng của một số tế bào đối với màu phụ thuộc đáng kể vào việc liệu yêu cầu công việc có buộc con vật chú ý đến màu sắc hay không. Một số lượng lớn các tế bào cho thấy sự khác biệt phụ thuộc màu sắc trong tần số phóng điện trong các khoảng thời gian duy trì của nhiệm vụ. Các đặc điểm tạm thời của phóng điện khác biệt và sự tan rã của nó khi không còn cần trí nhớ chỉ ra rằng các tế bào thể hiện nó có liên quan đến việc giữ lại thông tin thị giác.

#inferotemporal cortex #single-cell activity #visual stimuli #colored stimuli #memory retention #differential discharge #behavioral relevance
Visual attention and the transition from novice to advanced driver
Ergonomics - Tập 50 Số 8 - Trang 1235-1249 - 2007
Processing symbolic information from a visual display: Interference from an irrelevant directional cue.
American Psychological Association (APA) - Tập 83 Số 3, Pt.1 - Trang 415-420
Field dependence and attitude change: Source credibility can alter persuasion by affecting message‐relevant thinking
Journal of Personality - Tập 51 Số 4 - Trang 653-666 - 1983
Abstract

The present study shows that for a personally relevant counterattitudinal issue, a highly credible source can alter persuasibility by increasing a subject's message‐relevant thinking. Previous failures to show this effect were probably due to the highly thoughtful nature of typical research subjects, when confronted with involving issues. In the present study, field‐dependent and field‐independent subjects heard convincing or refutable counterattitudinal speeches given by sources of high or low credibility. Results indicated that subjects who are typically low in differentiation of stimuli (field‐dependent subjects) showed differential persuasion to strong and weak arguments only when they were presented by a highly credible source. For subjects who are typically high in propensity to differentiate stimuli (field‐independent subjects), the arguments were differentially persuasive for both high and low credible sources. These results are consistent with the hypothesis that increasing source credibility can enhance message‐relevant thought for subjects who typically do not scrutinize message content.

Unusual Dirac half-metallicity with intrinsic ferromagnetism in vanadium trihalide monolayers
Journal of Materials Chemistry C - Tập 4 Số 13 - Trang 2518-2526 - 2016
Tổng số: 572   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10